Chủ trương của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nước cơ bản đầy đủ từ Trung ương tới địa phương, đã góp phần tạo hành lang pháp lý khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy việc tạo ra, quản lý, khai thác, bảo vệ và phát triển TSTT. Các chính sách của địa phương, bộ, ngành cơ bản đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý triển khai hỗ trợ phát triển TSTT một cách đồng bộ, hiệu quả ở tất cả các ngành, các lĩnh vực
Luật SHTT quy định rõ ràng, đầy đủ các vấn đề có liên quan: Công nhận và bảo hộ quyền SHTT của các chủ thể; Hỗ trợ tài chính cho việc nhận chuyển giao, khai thác quyền SHTT phục vụ lợi ích công cộng; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ cho hoạt động sáng tạo và bảo hộ quyền SHTT; ưu tiên đầu tư đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực SHTT.
Tình hình phát triển TSTT giai đoạn 2013-2023 Phát triển TSTT trở thành công cụ quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia và từng địa phương. Số đơn sáng chế của doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học có xu hướng tăng nhanh, chứng tỏ năng lực hấp thu công nghệ, sáng chế của các chủ thể Việt Nam tăng đáng kể, công tác nghiên cứu đã gắn kết nhiều hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các chủ thể Việt Nam chủ yếu quan tâm đến SC, KDCN. Điều đó cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mặc dù khá sôi động (thông qua việc đăng ký bảo hộ KDCN và NH) nhưng chưa có nhiều sản phẩm chứa hàm lượng trí tuệ cao, hoạt động nghiên cứu ứng dụng và nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng tạo ra công nghệ, đổi mới sáng tạo còn hạn chế;
Số lượng đối tượng SHTT được chuyển giao, chuyển nhượng chiếm tỷ lệ nhỏ so với số lượng đơn được nộp và các văn bằng bảo hộ được cấp, chứng tỏ hoạt động quản lý, khai thác TSTT nói chung và sáng chế nói riêng chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.
Sự liên kết theo chuỗi giá trị giữa các tác nhân sản xuất, sơ chế, chế biến và tiêu thụ sản phẩm mang địa danh còn lỏng lẻo do việc phát triển chuỗi giá trị sản phẩm là hoạt động phức tạp, có liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau và đòi hỏi các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị đó phối hợp, hợp tác cùng tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch nâng cấp, phát triển chuỗi giá trị;
Người tiêu dùng ít có thông tin và chưa có hiểu biết đầy đủ về sản phẩm được bảo hộ SHTT trong khi đây là tác nhân đóng vai trò quyết định đến sự phát triển thị trường tiêu thụ và thương hiệu sản phẩm. Có nhiều người biết đến sản phẩm, tin tưởng và tiêu dùng sản phẩm là một trong những mục tiêu quan trọng nhất để thu hút các chủ thể sản xuất tham gia vào hệ thống bảo hộ SHTT.
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN trong phát triển TSTTTrong thời gian tới, các cơ quan quản lí nhà nước iếp tục nghiên cứu, ban hành các cơ chế, giải pháp hỗ trợ thúc đẩy tạo ra TSTT, đặc biệt là cho các nhóm chủ thể doanh nghiệp và nhóm sản phẩm chủ lực, đặc thù, sản phẩm OCOP địa phương.
Nâng cao vai trò của quản lý nhà nước về quản lý, kiểm soát nguồn gốc chất lượng sản phẩm được bảo hộ. Tăng cường chuyển đổi số trong quản lý, khai thác nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo bộ. Thúc đẩy hoạt động quảng bá, thương mại; Gắn với các chương trình xúc tiến thương mại, du lịch và OCOP….
Bên cạnh đó, cần đổi mới cách tiếp cận, cần xem SHTT như công cụ để bảo vệ, quản lý và phát triển giá trị, chứ không chỉ là mục tiêu, kết quả cuối cùng là sản phẩm được bảo hộ.Định kỳ có khảo sát, đánh giá về các kết quả, tồn tại, khó khăn của công tác quản lý, khai thác, phát triển TSTT. Triển khai nghiên cứu xác định sản phẩm nông nghiệp chủ lực, đặc sản ưu tiên đăng ký bảo hộ TSTT giai đoạn 2021 – 2030.
Tăng cường nguồn lực cho các nghiên cứu ứng dụng. Tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong việc đặt hàng, giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng từ nhu cầu, đề xuất của doanh nghiệp
Tiếp tục tăng cường năng lực (kỹ thuật, quản lý, thương mại) cho cán bộ chuyên môn, đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tham quan quản lý, sử dụng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể; thúcđẩy và tăng cường hiệu quả thực thi và chống xâm phạm quyền SHTT.
Đẩy mạnh việc đăng ký bảo hộ quyền SHTT nói chung và nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý nói riêng ở nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi để quảng bá, phát triển hình ảnh, khẳng định vị thể cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Công Thường